Nhiễm khuẩn tiết niệu là gì? Các công bố khoa học về Nhiễm khuẩn tiết niệu

Nhiễm khuẩn tiết niệu (UTI - Urinary Tract Infection) là một bệnh lý phổ biến mà có thể ảnh hưởng đến bất kỳ phần nào của hệ thống tiết niệu bao gồm bàng quang,...

Nhiễm khuẩn tiết niệu (UTI - Urinary Tract Infection) là một bệnh lý phổ biến mà có thể ảnh hưởng đến bất kỳ phần nào của hệ thống tiết niệu bao gồm bàng quang, ống niệu, thận và ống dẫn nước tiểu. Bệnh thường xảy ra khi vi khuẩn từ hậu môn hoặc âm đạo lan sang vùng tiết niệu. Triệu chứng thường gặp của nhiễm khuẩn tiết niệu bao gồm: tiểu buốt, tiểu đau, tiểu nhiều và thường đi tiểu.
Nhiễm khuẩn tiết niệu có thể xuất hiện ở bất kỳ phần nào trong hệ thống tiết niệu, gồm:

- Nhiễm khuẩn đường tiết niệu trên (Upper UTI): Bao gồm thận và ống dẫn nước tiểu. Nếu nhiễm khuẩn lan đến thận, có thể gây ra viêm nhiễm nghiêm trọng và có nguy cơ gây hại đến sức khỏe. Triệu chứng thông thường gồm đau lưng mạn tính, hạ sốt, buồn nôn và nôn mửa.

- Nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới (Lower UTI): Gồm bàng quang (cystitis) và ống niệu (urethritis). Đây là loại nhiễm khuẩn thường gặp nhất. Triệu chứng thông thường gồm tiểu đau, tiểu buốt, tiểu nhiều và thường đi tiểu. Có thể có cảm giác buồn bực, mệt mỏi và đau bụng.

- Nhiễm khuẩn hệ niệu đạo (Urethral infection): Xảy ra khi vi khuẩn xâm nhập hoặc lan từ đường niệu đạo vào ống niệu hoặc bàng quang. Triệu chứng chính gồm tiểu buốt, tiểu đau và có thể có chảy dịch từ niệu đạo.

Nguyên nhân gây nhiễm khuẩn tiết niệu thường liên quan đến vi khuẩn, trong đó Escherichia coli (E. coli) là nguyên nhân chính. Điều này thường xảy ra khi vi khuẩn từ hậu môn lan sang vùng tiết niệu, thường qua quá trình đi tiểu hoặc quan hệ tình dục không sạch sẽ. Các yếu tố tăng nguy cơ bao gồm tình trạng miễn dịch suy giảm, tiểu tiện không đầy đủ hoặc vấn đề về cơ giải phẫu hệ tiết niệu.

Để chẩn đoán nhiễm khuẩn tiết niệu, người bệnh thường được yêu cầu cung cấp mẫu nước tiểu để xác định sự hiện diện của vi khuẩn. Sau khi xác định vi khuẩn gây nhiễm khuẩn, sẽ được chỉ định loại kháng sinh phù hợp để điều trị. Nếu không được điều trị, nhiễm khuẩn tiết niệu có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng như thận bị tổn thương hoặc nhiễm trùng huyết.
Nhiễm khuẩn tiết niệu có thể xảy ra do vi khuẩn xâm nhập và phát triển trong hệ thống tiết niệu. Vi khuẩn thông thường từ hậu môn hoặc âm đạo có thể lan vào tiết niệu và gây nhiễm trùng. Vi khuẩn phổ biến gây nhiễm khuẩn tiết niệu là Escherichia coli (E. coli), nhưng cũng có thể là các loại vi khuẩn khác như Klebsiella, Proteus, Staphylococcus và Streptococcus.

Nguyên nhân và yếu tố tăng nguy cơ gồm:

1. Hậu quả của việc không giữ vệ sinh cá nhân tốt: Nếu không giữ vệ sinh cá nhân hoặc không lau sạch sau khi đi tiểu hoặc sau quan hệ tình dục, vi khuẩn từ hậu môn hoặc âm đạo có thể lan vào vùng tiết niệu và gây nhiễm trùng.

2. Hạn chế trong hệ thống miễn dịch: Các yếu tố như suy giảm sức đề kháng do bệnh lý, thuốc uống dẫn đến suy giảm miễn dịch, hoặc đang điều trị hóa trị hoặc đợi ghép tạng có thể tăng nguy cơ nhiễm khuẩn tiết niệu.

3. Các vấn đề về cơ học: Các vấn đề như khối u ở hệ thống tiết niệu, việc sử dụng ống truyền nước tiểu, các phương pháp quấy rối tiết niệu hoặc cơ giới hóa làm tăng rủi ro nhiễm trùng.

4. Yếu tố gây tổn thương niệu quản: Vi khuẩn có thể xâm nhập hệ thống tiết niệu khi có bất kỳ chấn thương hoặc tổn thương nào ở niệu quản, như viêm niệu quản hay hiện tượng niệu quản thừa.

Triệu chứng của nhiễm khuẩn tiết niệu thường bao gồm:

- Tiểu buốt: Cảm giác đau hoặc khó chịu khi tiểu.
- Tiểu đau: Đau hoặc kích thích khi tiểu, có thể cảm nhận từ bàng quang trở lên.
- Tiểu nhiều và thường đi tiểu: Cảm giác tiểu không hết hoặc cảm giác thường xuyên muốn tiểu.
- Tiểu mơ màng hoặc có màu sắc khác thường.
- Huyết trong nước tiểu: Có thể từ một số vi khuẩn gây tổn thương niệu quản hoặc bàng quang.
- Hạ sốt và đau lưng khi nhiễm khuẩn ảnh hưởng đến thận.

Để chẩn đoán nhiễm khuẩn tiết niệu, bác sĩ thường yêu cầu mẫu nước tiểu để kiểm tra sự hiện diện của vi khuẩn và phân tích độ nhạy cảm kháng sinh của chúng. Sau khi xác định vi khuẩn gây nhiễm khuẩn, bác sĩ sẽ đưa ra quyết định về việc sử dụng kháng sinh hoặc phương pháp điều trị phù hợp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhiễm khuẩn tiết niệu":

KHẢO SÁT TỶ LỆ KHÁNG KHÁNG SINH CỦA VI KHUẨN ESCHERICHIA COLI GÂY NHIỄM KHUẨN TIẾT NIỆU Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 2 - 2022
Nhiễm trùng đường tiết niệu phổ biến hơn, nặng hơn và mang lại kết quả xấu hơn ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2. Nguyên nhân chủ yếu là do vi khuẩn đặc biệt vi khuẩn E. coli. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tỷ lệ E. coli gây nhiễm khuẩn tiết niệu ở bệnh nhân đái tháo đường và mức độ đề kháng của các chủng E. coli phân lập. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, tất cả 295 bệnh nhân được chẩn đoán Đái tháo đường và được cấy nước tiểu, tại Khoa Nội tiết Bệnh viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An từ 01/2021 đến 04/2021. Kết quả: Tỷ lệ E. coli gây nhiễm khuẩn đường tiết niệu phân lập được chiếm 65,3% (17/26) trong tổng số chủng vi khuẩn. Tỷ lệ các chủng sinh ESBL là 47,4%. E.coli kháng với nhóm kháng sinh Quinolon từ 42,1 – 57,9%. Kháng với nhóm Cephalosphorin 42,1 – 73,7%; Ampicillin và Piperacilli 84,2%; Cotrimoxazol và Ampicillin/Sulbactam là 57,9%. Tuy nhiên các kháng sinh nhóm Carbapenem, Fosmicin và Amikacin còn nhạy cảm tốt với vi khuẩn E.coli với tỷ lệ > 95% -100%. Kết luận: E. coli dẫn đầu các căn nguyên gây nhiễm khuẩn tiết niệu ở bệnh nhân đái tháo đường và đề kháng với tất cả kháng sinh thử nghiệm với các mức độ khác nhau. Do đó giám sát thường xuyên về mức độ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn đề giúp công tác kiểm soát nhiễm khuẩn, quản lý và sử dụng kháng sinh hiệu quả.
#E. coli #nhiễm khuẩn tiết niệu #đái tháo đường
Tình hình kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn tiết niệu tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Thu Cúc giai đoạn 2018 - 2019
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn thường gây nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) tại Bệnh viện Bệnh viện Đa khoa Quốc tế (ĐKQT) Thu Cúc giai đoạn 2018-2019. Đối tượng và phương pháp: 190 chủng vi khuẩn phân lập được từ 695 mẫu nước tiểu của các bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện ĐKQT Thu Cúc từ tháng 01/2018 đến tháng 12/2019. Phương pháp: Cấy đếm để xác định số lượng vi khuẩn/1ml nước tiểu và định danh vi khuẩn bằng bộ tính chất sinh vật hóa học API. Kết quả: Tỷ lệ vi khuẩn dương tính trong nước tiểu là 27,33%; Các vi khuẩn gây bệnh thường gặp là: E. coli (41,58%), S. epidermidis (21,58%), S. saprophyticus (20,53%), Enterococcus spp. (8,42%) và Klebsiella spp. (5,79%). E. coli kháng với các quinolon: (Levofloxacin: 38,9%, ciproloxacin: 40,3%), nhạy cảm với cephalosphorin thế hệ III, IV (ceftriaxon: 58,6%, ceftazidim: 70% và cefepim: 77,1%), amikacin (70,7%), imipenem (89,4%) và meropenem (92,6%); S. epidermidis kháng với các cephalosporin thế hệ II và III (cefuroxim: 37,9%, ceftriaxon: 43,3% và ceftazidim: 53,8%), sulfamethoxazole/trimethoprim (95%) và các quinolon (tỷ lệ kháng levofloxacin, ofloxacin và ciprofloxacin lần lượt là 36,7%, 61,8% và 67,6%), nhạy cảm với kháng sinh penicillin/chất ức chế β-lactamase, imipenem (97%) và meropenem (89,3%). S. saprophyticus kháng trung gian với các cephalosporin thế hệ II và III (cefuroxim: 30,3%, ceftriaxon: 43,2% và ceftazidim: 66,7%), sulfamethoxazole/trimethoprim (69%) và các quinolon (tỷ lệ kháng levofloxacin, ofloxacin và ciprofloxacin lần lượt là 43,5%, 59,3% và 58,1%), nhạy cảm với kháng sinh nhóm carbapenem: Imipenem (90%) và meropenem (95,7%). Enterococcus spp. kháng lại kháng sinh cephalosporin thế hệ II, III (cefuroxim: 80%, ceftriaxon: 57,1% và ceftazidim: 63,6%), các quinolon (tỷ lệ kháng levofloxacin, ciprofloxacin và ofloxacin lần lượt là 38,5%, 50% và 50%), kháng aminosid (amikacin: 25% và gentamycin: 37,5%), đề kháng oxacillin (100%) giảm nhạy với carbapenem (imipenem: 92,9% và meropenem: 62,5%), còn nhạy cảm với vancomycin (83,3%). Kết luận: Các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn tiết niệu thường gặp tại Bệnh viện ĐKQT Thu Cúc là E. coli (41,58%), S. epidermidis (21,58%), S. saprophyticus (20,53%), Enterococcus spp. (8,42%), và Klebsiella spp. (5,79%). Các vi khuẩn này kháng cao với cephalosporin thế hệ I, II, với các quinolon, còn nhạy với kháng sinh nhóm carbapenem. Do đó cần thực hiện tốt việc quản lý sử dụng kháng sinh tại bệnh viện để làm giảm tỷ lệ vi khuẩn đa kháng kháng sinh.
#Kháng kháng sinh #Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Thu Cúc
TỶ LỆ NHIỄM VÀ TÍNH KHÁNG KHÁNG SINH CỦA VI KHUẨN GÂY NHIỄM KHUẨN TIẾT NIỆU Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ ĐA KHOA NGHỆ AN NĂM 2020
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 2 Số 34 - Trang 58-64 - 2021
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ nhiễm và tính kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn phân lập được từ bệnh phẩm nước tiểu của bệnh nhân đến khám và điều trị tại Bệnh viện Hữu nghị đa khoa Nghệ An năm 2020. Đối tượng và phương pháp: Các chủng vi khuẩn gây nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) phân lập được tại bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An từ 1/2020 đến 12/2020. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Trong 462 chủng vi khuẩn gây NKTN, E. coli chiếm tỷ lệ cao nhất (40,26%), đứng thứ hai:  P. aeruginosa (15,15%), tiếp theo: K. pneumoniae (12,99%) và Enterococcus sp (10,39%). E. coli đã kháng cephalosporine có tỷ lệ: 57,53 – 65,05%, quinolone (58,06 – 60,75%) nhưng vẫn còn nhạy cảm cao với carbapenem, fosfomycin (87,63 – 90,86%). Một nửa chủng E. coli sinh ESBL (Extended spectrum beta-lactamase). K. pneumoniae kháng nhóm cephalosporin, quinolone dao động từ 66,67% - 75%, kháng carbapenem (45 –50%). P. aeruginosa kháng các kháng sinh thử nghiệm từ 47,14% - 62,86%. Enterococcus sp. kháng các kháng sinh nhóm quinolone với tỷ lệ: 70,83%, kháng vancomycin: 8,33%. Chưa ghi nhận chủng Enterococcus kháng linezolid.   Kết luận: Các vi khuẩn gây NKTN thường gặp là E. coli, K. Pneumoniae, P. aeruginosa, Enterococcus sp. Các vi khuẩn phân lập được đã kháng các kháng sinh thường dùng với các mức độ khác nhau. Đặc biệt, các chủng vi khuẩn Gram âm kháng carbapenem, Gram dương kháng vancomycin.
#Nhiễm khuẩn tiết niệu #E. coli #P. aeruginosa #Enterococcus sp #Klebsiella
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG ĐIỀU TRỊ NHIỄM TRÙNG ĐƯỜNG TIẾT NIỆU TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THỐNG NHẤT ĐỒNG NAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ các vi khuẩn gây bệnh, mức độ đề kháng của vi khuẩn và kết quả trong điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu (NTĐTN) tại Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất Đồng Nai. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu trên 171 hồ sơ bệnh án (HSBA) có chẩn đoán NTĐTN từ 01/01/2020 đến 31/12/2020 được điều trị nội trú tại khoa Ngoại niệu Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất Đồng Nai. Kết quả: Tuổi trung bình (TB) của mẫu nghiên cứu (51,7 ± 17,8) trong đó nữ chiếm tỷ lệ 52%. Trong tổng số mẫu nghiên cứu có 113 trường hợp (TH) 66,1% bệnh nhân có ít nhất 1 bệnh mắc kèm, tăng huyết áp gặp nhiều nhất 18,7%, các yếu tố gây phức tạp NTĐTN (bất thường cấu trúc hệ niệu chiếm tỉ lệ cao nhất 62,6%). Số BN lấy mẫu làm kháng sinh đồ (KSĐ) chiếm tỉ lệ 57,9%, kết quả mẫu cấy dương tính 48,5%, có 34 TH định danh ra 1 vi khuẩn (VK) và 2 TH định danh ra 2 VK, VK Gram (-) 73,7%, VK định danh ra được chủ yếu là Escherichia coli 39,5%, Proteus mirabilis 7,9%, Klebsiella pneumonia 7,9%, Pseudomonas aeruginosa 7,9%. Kết quả nghiên cứu cho thấy các VK này có tình trạng đề kháng cao với 1 số kháng sinh (KS): Escherichia coli kháng 100% cefazolin, cefotaxim, cefotetan, cefepim còn các KS khác cũng có tỷ lệ kháng trên 50% ampicillin, ceftriaxon, ceftazidim, ciprofloxacin… Kết quả điều trị BN được chẩn đoán đỡ giảm - xuất viện chiếm đa số. Kết luận: Nguyên nhân chủ yếu gây NTĐTN là do VK Gram (-): Escherichia coli, Proteus mirabilis, Klebsiella pneumonia, Pseudomonas aeruginosa.... Các VK này có tình trạng đề kháng cao với một số KS cefazolin, cefotaxim, ampicillin, ceftriaxon… Tình trạng đề kháng KS của VK ngày càng gia tăng nói chung và đặc biệt trong điều trị NTĐTN nói riêng. Chính vì vậy việc cung cấp thường xuyên tình hình đề kháng KS của VK là cần thiết cho các bác sĩ trong điều trị. Kết quả điều trị NTĐTN giảm – xuất viện chiếm tỉ lệ cao 97,1%.
#Nhiễm trùng đường tiết niệu #vi khuẩn #kháng sinh.
TÌNH TRẠNG NHIỄM KHUẨN TIẾT NIỆU VÀ KHÁNG KHÁNG SINH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH KIÊN GIANG NĂM 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 1 - 2023
Đặt vấn đề: Nhiễm khuẩn đường tiết niệu là một trong những bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn, chiếm tỉ lệ mắc bệnh cao đáng kể trong các trường hợp nhiễm khuẩn tại bệnh viện. Việc giám sát phát hiện sớm và ngăn ngừa NKTN là rất quan trọng đối với bác sĩ lâm sàng giúp chẩn đoán và điều trị hiệu quả. Mục tiêu: Khảo sát vi khuẩn gây nhiễm trùng đường tiết niệu, xác định mức độ kháng kháng sinh của từng chủng vi khuẩn phân lập được. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang những bệnh nhân nội trú có chẩn đoán lâm sàng là nhiễm khuẩn đường tiết niệu, được chỉ định cấy nước tiểu cho kết quả dương tính (>100.000 vi khuẩn/mL) và thực hiện kháng sinh đồ. Kết quả:  E. coli có tỉ lệ cao nhất 54,5%, kế đến là K. pneumoniae 15,6%, Pseudomonas spp 9,9%, Enterococcus faecalis 6,0%. Về tỉ lệ đề kháng kháng sinh E. coli có tỉ lệ để kháng cao với Cefazolin (100%), Ampicillin (97,9%), Ciprofloxacin (91,7%). K. pneumoniae đề kháng với Ampicillin, Cefazolin khá cao (100%), Ciprofloxacin (96,4%), Ampicillin/sulbactam (92,7%), Ceftazidime (90,9%). Pseudomonas spp có tỉ lệ đề kháng với Nitrofurantoin cao (91,2%), Ceftazidime, Ciprofloxacin (88,6%), Meropenem (85,7%). Enterococcus faecalis đề kháng với Tetracycline (81,0%), Levofloxacin (71,4%) và chưa phát hiện đề kháng với Vancomycin, Nitrofurantoin, Linezolid. Staphylococcus spp tỉ lệ đề kháng kháng sinh với Ampicillin, Penicillin G (100%), Gentamicin (90%), Oxacillin (80%), Ciprofloxacin (70%), chưa phát hiện sự đề kháng đối với Nitrofurantoin, Vancomycin. Kết luận: E. coli là vi khuẩn gây nhiễm khuẩn đường tiết niệu cao nhất. Tình trạng đề kháng kháng sinh của các loại vi khuẩn ngày càng cao trong bệnh viện.
#Nhiễm trùng tiết niệu #kháng kháng sinh #bệnh viện đa khoa tỉnh Kiên Giang
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG ĐIỀU TRỊ NHIỄM KHUẨN ĐƯỜNG TIẾT NIỆU TẠI KHOA TIẾT NIỆU BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP. HỒ CHÍ MINH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 1 - 2022
Mở đầu: Nhiễm khuẩn đường tiết niệu (NKĐTN) là một trong những nhiễm khuẩn phổ biến nhất hiện nay. Tình hình đề kháng kháng sinh của các vi khuẩn gây bệnh đang có xu hướng gia tăng và việc sử dụng kháng sinh chưa hợp lý trong điều trị NKĐTN đã được ghi nhận trong nhiều báo cáo. Mục tiêu: Khảo sát các vi khuẩn gây NKĐTN, tình hình đề kháng kháng sinh, việc sử dụng kháng sinh và các yếu tố liên quan đến thời gian nằm viện trong điều trị NKĐTN tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 151 hồ sơ bệnh án (HSBA) có chẩn đoán NKĐTN từ tháng 10 năm 2020 đến tháng 3 năm 2021 tại khoa Tiết niệu, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Dữ liệu thu thập từ HSBA bao gồm các đặc điểm dịch tễ học, các kết quả cận lâm sàng, vi sinh, kháng sinh đồ và kháng sinh chỉ định. Kết quả: Vi khuẩn gram âm chiếm 81,1%, trong đó Escherichia coli (E. coli) chiếm tỷ lệ cao nhất (43,4%). E. coli còn nhạy cao (> 90%) với amikacin, carbapenem, cefoperazon/ sulbactam, piperacillin/tazobactam và fosfomycin và thấp hơn đối với với levofloxacin và TMP/SMX (43,5%).  Fosfomycin và ertapenem là các kháng sinh kinh nghiệm được sử dụng nhiều nhất. Trong mẫu nghiên cứu, 54,5% BN được đánh giá là sử dụng kháng sinh kinh nghiệm phù hợp với các hướng dẫn điều trị. Tuổi, sự phân lập được vi khuẩn gây bệnh và bệnh nền đái tháo đường có liên quan có ý nghĩa thống kê đến thời gian nằm viện của BN trong điều trị NKĐTN. Kết luận: Các kết quả nghiên cứu cho thấy sự cần thiết phải cập nhật tình hình đề kháng của vi khuẩn gây NKĐTN.
#kháng sinh #nhiễm khuẩn đường tiết niệu #E. coli
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH VIÊM THẬN BỂ THẬN SINH KHÍ TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 1B - 2023
Mở đầu và mục tiêu: Viêm thận bể thận sinh khí (VTBTSK) là tình trạng nhiễm khuẩn cấp tính nặng, hoại tử nhu mô thận và mô quanh thận, đặc trưng bởi việc tạo ra khí trong nhu mô thận, hệ thống thu thập, mô quanh thận. Khí các-bon dioxide được tạo ra bởi quá trình vi khuẩn lên men đường. Triệu chứng ban đầu tương đối mơ hồ, nhưng thường có sự suy giảm đột ngột tổng trạng, cần phải chẩn đoán sớm và điều trị tích cực kịp thời. Nghiên cứu này mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh VTBTSK tại bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả hàng loạt trường hợp VTBTSK tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 1 năm 2011 đến hết tháng 12 năm 2019. Kết quả: Trong 176 bệnh nhân VTBTSK nhập viện tại bệnh viện Chợ Rẫy có 81,2% là giới nữ, với tuổi trung vị là 59 (51-67,5). Tỉ lệ bệnh nhân có có đái tháo đường và bế tắc đường tiết niệu lần lượt là 72,2% và 62%. Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là đau hông lưng và sốt với tỉ lệ lần lượt là 94,3% và 86,9%. Tại thời điểm nhập viện, có 40,3% bệnh nhân có tổn thương thận cấp, 38,6% có nhiễm khuẩn huyết, 23,3% có choáng nhiễm khuẩn và 19,9% có rối loạn tri giác. Giảm tiểu cầu được ghi nhận ở 29,5% trường hợp. Dấu hiệu VTBTSK phát hiện trên siêu âm và KUB lần lượt là 22,8% và 13,7%. VTBTSK nhóm 3  và nhóm 4 theo Huang và Tseng có 102 TH (57,9%). Trong đó, tổn thương thận trái và thận phải tương đương nhau, lần lượt chiếm 45,4% và 50,6%. Tổn thương cả hai bên gặp trong 7 TH (4%). Kết luận: VTBTSK là bệnh lý nhiễm khuẩn cấp tính rất  nặng của thận cần phải  được chẩn đoán sớm và điều trị tích cực kịp thời. CT scan bụng  là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán. Điều trị VTBTSK phụ thuộc vào bệnh lí đi kèm và phân loại trên CT scan, cần phối hợp nội khoa và ngoại khoa.
#Viêm thận bể thận sinh khí (VTBTSK) #nhiễm khuẩn đường tiết niệu #đái tháo đường
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG NGỪA NHIỄM KHUẨN TIẾT NIỆU CỦA SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG NĂM 4 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT Y TẾ HẢI DƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 527 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, thái độ về phòng ngừa nhiễm khuẩn tiết niệu ở người bệnh có dẫn lưu nước tiểu của sinh viên điều dưỡng đa khoa và sản phụ khoa năm 4 tại Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 132 sinh viên Điều dưỡng năm 4 Trường Đại học Kỹ thuật Y tế Hải Dương. Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 12/2021 đến tháng 06/2022. Bộ câu hỏi được sử dụng để thu thập số liệu  để đánh giá kiến thức và thái độ của sinh viên Điều dưỡng về phòng ngừa nhiễm khuẩn tiết niệu. Số liệu được thu thập và phân tích bằng phần mềm SPSS. Kiến thức được xác định là đạt khi số câu trả lời đúng ≥ 70%. Thái độ đánh giá được chia thành tích cực/chưa tích cực. Kết quả: Đối tượng tham gia nghiên cứu chủ yếu là nữ (93,2%); Số sinh viên học ngành Điều dưỡng Đa khoa chiếm 85,6%. Tỷ lệ sinh viên Điều dưỡng có kiến thức đạt chung về nhiễm khuẩn tiết niệu là 43,1%. Tỷ lệ sinh viên Điều dưỡng có thái độ tích cực về nhiễm khuẩn tiết niệu chiếm 51,5%. Kết luận: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng gần 50% sinh viên tham gia vào nghiên cứu chưa có kiến thức tốt về phòng ngừa nhiễm khuẩn tiết niệu. Vì vậy, tập trung đào tạo nâng cao kiến thức cho sinh viên là điều cần thiết để phòng ngừa nhiễm khuẩn tiết niệu cho người bệnh khi đi thực hành lâm sàng.
#Kiến thức #thái độ #nhiễm khuẩn tiết niệu #sinh viên điều dưỡng
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN TIẾT NIỆU PHỨC TẠP TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 2 - 2022
Mục Tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, một số yếu tố thuận lợi và căn nguyên vi sinh của nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) phức tạp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 155 bệnh nhân được chẩn đoán NKTN phức tạp trong thời gian từ 8/2020 đến tháng 6/2022. Số liệu được thu thập bằng hỏi bệnh, ghi nhận theo hồ sơ bệnh án của bệnh nhân để thu thập thông tin về triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng, các yếu tố nguy cơ và căn nguyên vi sinh vật gây bệnh. Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 50 ±17,9 với 38,7% bệnh nhân từ 20 - 45 tuổi. Tỷ lệ bệnh nhân nữ chiếm 65,2%. Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là tiểu buốt 72,3%, tiểu rắt 71,6%,  đau hông lưng  48,4% và triệu chứng sốt  với tỷ lệ 43%. Yếu tố nguy cơ phổ biến nhất là sỏi tiết niệu  38,1% và các can thiệp sỏi 80%. Cấy nước tiểu có 78% dương tính với vi khuẩn Gram âm, trong đó E.coli chiếm 51,6%. Vi khuẩn E.coli nhạy cảm cao với fosfomycin (92,3%), meropemem (95%), amikacin( 93,5%) và piperacillin + tazobactam (88%). E.coli  kháng > 50% với các kháng sinh thuộc nhóm fluoroquinolone và các thế hệ của cephalosporin. Vi khuẩn gram dương chủ yếu là Enteroccocus spp (14%) và Staphylococcus spp (12%). Kết luận: NKTN phức tạp thường gặp ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi, nữ gặp nhiều hơn nam. Yếu tố nguy cơ thường gặp là sỏi tiết niệu và các can thiệp đường tiết niệu. Triệu chứng lâm sàng phổ biến là rối loạn đi tiểu và đau hông lưng và sốt. Căn nguyên vi sinh gây bệnh phổ biến nhất là E.coli. Nhiều vi khuẩn có tỷ lệ đề kháng cao với các kháng sinh đang được sử dụng để điều trị NKTN.
#Nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) phức tạp #đề kháng kháng sinh
ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN NHIỄM KHUẨN TIẾT NIỆU PHỨC TẠP ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và căn nguyên vi khuẩn học của bệnh nhân nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) phức tạp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 100 bệnh nhân được chẩn đoán NKTN phức tạp tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên (BVTWTN) từ tháng 02/2020 đến tháng 8/2021. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ = 0,79. Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 61,64±17,15 với 60% bệnh nhân ≥60 tuổi. Thời gian nằm viện trung bình của các bệnh nhân là 14,22±7,49 ngày với 87% bệnh nhân nằm viện >7 ngày. 41% bệnh nhân có biểu hiện sốt, 33% với tiểu buốt và 49% với đau hông lưng. 41% bệnh nhân có suy thận, 40% với sỏi thận và 32% với bệnh lý suy giảm miễn dịch. 100% bệnh nhân có bạch cầu trong nước tiểu, 44% có hồng cầu niệu và 45% có nitrit niệu dương tính. Cấy nước tiểu: 91% dương tính với vi khuẩn Gram âm, trong đó vi khuẩn E.coli chiếm 61%, P.aeruginosa là 8%; E.coli nhạy cảm cao với fosfomycin (93,8%), meropenem (93,2%), piperacillin + tazobactam (84,9%) và amikacin (71,2%); kháng >50% các kháng sinh nhóm fluoroquinolone và các thế hệ của cephalosporin, kháng >80% nhóm betalactam và ức chế acid folic. Vi khuẩn Gram dương phân lập được hai chủng là Staphylococcus spp (4%) và Enterococcus spp (5%). Trong đó, Staphylococcus spp đã kháng với hầu hết các nhóm kháng sinh đang được sử dụng tại bệnh viện. Kết luận: NKTN phức tạp thường gặp ở những bệnh nhân cao tuổi, có bệnh lý thận mạn tính, sỏi tiết niệu hoặc tình trạng suy giảm miễn dịch. Triệu chứng lâm sàng thường gặp là sốt, rối loạn đi tiểu. Căn nguyên vi khuẩn gây NKTN phức tạp thường gặp là E.coli. Nhiều vi khuẩn có tỷ lệ đề kháng cao với các kháng sinh đang được sử dụng để điều trị NKTN tại bệnh viện.
#Nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) phức tạp #đề kháng kháng sinh
Tổng số: 33   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4